Friday, July 30, 2010

THƠ VIẾT CHO NGƯỜI


Đêm tàn mỏng váng giấc mơ

Cỏ non ướt đợi bay chờ thu không

Ngày gieo hạt nắng trên đồng

Chiều buông sương rụng nụ hồng lả lơi.

...

Sớm mai bước nhẹ xuống đời

Gió vờn áo lụa tóc mời nắng xuân

Em cười nụ gửi bâng khuâng

Xa xăm mắt liếc nghe gần nỗi thương.

...

Đêm thâu thức trọn canh trường

Để nghe sao rụng khói sương gọi mời

Trăng nghiêng gầy úa đất trời

Lỡ duyên dâu bể chơi vơi ngỡ ngàng

Đàn kêu tích tịch tình tang

Con sâu hóa kiếp bướm vàng ngẩn ngơ.

Thursday, July 29, 2010

BỤI TRONG NẮNG


Tôi bước đi và ngoái lạiTrên vai tôi là bụi của nắng mặt trời tinh khiết…
Võ Thanh Nga

Lời giới thiệu của Vũ Ngọc Tiến: Tôi đọc truyện này từ khi còn trong bản thảo (trước khi in trên báo Văn Nghệ Trẻ số 52 ngày 26/12/2009), do mẹ cháu gửi đến qua mail và đã bật khóc. Lớp trẻ 8x nhìn đất nước, suy ngẫm tương lai qua hình hài người cha mang căn bệnh ung thư mà cái chết như được báo trước bằng sự bòn rút của cải bên trong và bài thuốc lừa đảo bên ngoài. Tôi càng khóc vì tác giả sinh ra trong một gia tộc lừng danh, cả ông nội, ông ngoại đều là bậc nhất khai quốc công thần!... VNT

Tháng 4-5 năm 2009…
Tôi tốt nghiệp đại học. Không chuông kèn, không áo nón của những cử nhân. Trước đó, tôi tưởng mình sắp phát điên bởi cái căng thẳng khi làm luận án tốt nghiệp. Người ta làm luận án trong mấy tháng, tôi dồn nó vào mấy tuần. Luận án của tôi là phân tích một bộ phim siêu thực tên Donnie Darko, đưa những lý thuyết của nhà thuyết học Michel Foucault về sức mạnh tâm lý bên trong con người, nhận thức và vô thức trong điều khiển bản thân vào bộ phim ấy mà phân phân tích tích. Tôi hài lòng với cái đề tài đó, nhưng có lẽ tôi tự đánh giá quá cao sự cứng rắn của bản thân. Tôi bị chính cái đề tài luận án của mình ảnh hưởng đến tâm lý, nhìn thấy mình trong những lý thuyết sâu xa, tôi bắt đầu thả suy ngẫm, tự hỏi vào đó. Khi người ta đi vào quá sâu trong đầu của chính mình, người ta rất dễ bị kẹt luôn bên trong mà không ra ngoài được. Tôi sợ điều đó.
Khi tôi vừa hoàn thành luận án tốt nghiệp một cách tốt đẹp cũng là lúc tôi nghe tin ba tôi bị ung thư tụy. Tôi ngỡ ngàng, thậm chí không cảm nhận được cái cảm giác đầu tiên khi nghe điều đó từ mẹ. Tuy lâu nay tôi không gần gũi ba như mẹ, nhưng ông vẫn là ba tôi. Tôi sợ, khi đã rất lâu tôi thường không nghĩ về người, thì giờ tôi lại sắp mất người. Thiên hạ vẫn luôn nói, chỉ đến lúc ta sắp mất một cái gì ta đang có, ta mới thấy quý nó. Ở đây là một người ba mà đôi lúc tôi thậm chí vô tình quên mất. Tôi hoàn tất các môn còn lại rồi vội vã bay về nước. Trong đầu tôi còn quá nhiều thứ. Tôi về, và lần đầu gặp lại ba chỉ sau vài tháng từ hồi Noel, ba ốm đi hẳn. Mẹ buồn nhiều. Tôi biết giữa mẹ và ba là một thứ tình nghĩa chân thành dù đã ly dị nhau.
Tháng 6 năm 2009…
Tôi chuyển sang nhà ba ở để tiện chăm sóc ba, vì mẹ tôi bận nhiều công việc, còn chị gái thì vướng bận gia đình, con cái. Ông trời có mắt, sắp đặt tôi không phải vướng bận gì, lại vừa tốt nghiệp đại học, không bị dở dang chuyện học hành. Thời gian đầu, ba tôi có vẻ ngại. Trước kia, ba gần như chỉ ở một mình, có ông bạn thân cùng nhà ở lầu trên nhưng cũng đi suốt. Ba bảo tôi muốn sang ở cũng được, nhưng cứ đi chơi, cứ ngủ thoải mái. Sau đó, ba cũng có vẻ vui lên, nhiệt tình trang trí cho phòng của tôi thật hoành tráng, lắp thật nhiều đèn. Phòng tôi trở thành căn phòng nhiều đèn nhất trong nhà, rộng rãi, không gian thoải mái để tôi lắp giá vẽ, để tranh, còn có cái TV to đùng. Tôi vui vì thấy ba vui, buồn vì thấy ba vẫn càng ngày càng tiều tụy. Mỗi khi có người sang thăm, ba đều khoe là con gái ba chuyển sang ở cùng để chăm sóc ba. Ba khen với mọi người rằng tôi giỏi, lanh lẹ.
Từ hồi chuyển sang nhà ba, tôi không ra ngoài nữa. Tôi không gọi bạn bè để tụ tập đi chơi như những lần trước về Việt Nam. Tôi ở nhà nhiều, chỉ ra đường khi cần mua gì cho ba. Hàng ngày nhìn ba chịu đựng đau đớn, nhìn mẹ và chị cứ lén lút khóc lóc, tâm lý cũng bị đè nén. Tâm trạng tôi khó chịu đi, hay căng thẳng. Ba lại càng ngày càng quen với chuyện tôi ở đây để chăm sóc, nên gọi thường xuyên, tôi lúc nào cũng phải trong tư thế sẵn sàng. Tính ba kỹ lưỡng, cẩn thận, lúc dễ lúc khó nhưng đòi hỏi khi cần gì là phải có ngay, có tốt. Tôi cô đơn và căng thẳng. Mà sự cô đơn dễ khiến người ta bi lụy. Tôi vẽ tranh như một phương pháp trị liệu tâm lý cho mình. Những bức tranh rướm máu, rồi đến những bức tranh nhẹ nhàng, thanh thản. Mẹ sang thăm tôi và ba hàng tối, nói thương tôi vì phải gánh trách nhiệm chăm ba cho cả nhà. Tôi không nói gì, tôi làm điều này một phần để trả hiếu cho ba, một phần lớn là cho mẹ. Tôi biết tôi đang làm mẹ tự hào, và điều đó là điều duy nhất khiến tâm lý tôi trụ vững.
Tôi là đứa yêu thích tự do, thích lang thang ngoài đường ngắm cuộc sống đi lại trên những đôi chân, lăn tròn trên những bánh xe. Thích ngồi quán cà phê nhìn cà phê nhỏ giọt, rồi ngẫm đời qua cái muỗng cà phê. Thích tụ tập bạn bè, hay chỉ đi dạo với một đứa bạn thân đâu đó. Nói chung, nếu thời tiết không phải là mùa đông, thì tôi không thích ở nhà. Có một con bạn của tôi, tên Dung, trước kia lớn lên với tôi trong cùng một ngôi nhà. Nó thương tôi lắm. Thời gian tôi ở nhà ba, nó nói thấy tôi trở nên khác hẳn. Trước kia suốt ngày lông nhông ngoài đường, bây giờ thì suốt ngày nhốt mình trong nhà. Tôi không dám đi đâu vì sợ mỗi lần ba tôi cần lại không có mặt. Mà vì tôi không thể đi chơi, nên mấy đứa bạn cũng chẳng thèm gọi tôi nữa. Chỉ có mỗi con Dung là qua lại thường xuyên để tôi đỡ cô đơn. Tính tình nó đơn giản, dễ thương, thật thà, chứ không phức tạp như những đứa bạn thân khác của tôi.
Thời gian này, tôi nhận ra một điều đáng giá. Có những bạn bè chỉ ở đó khi ta vui, khi ta đủ điều kiện để trả tiền ăn chơi, có thời gian để hưởng thụ niềm vui. Còn khi ta buồn bã, khóc lóc, thì phần lớn thời gian đó ta trải qua một mình. Dù vậy, tôi cũng không khỏi ngạc nhiên khi có những thằng bạn khác mà tôi từng nghĩ là không thân, thi thoảng lâu lâu mới gặp mặt đi ăn một lần, thì lại gọi điện hỏi thăm thường xuyên khi nghe tin ba tôi bị bệnh. Tôi biết ơn những người đó, vì họ cho tôi hiểu ra luôn có bất ngờ trong cuộc sống.

Ba tôi bệnh càng ngày càng nặng. Thời gian đầu, ba tôi đi Hà Nội chữa với một ông thầy được cho là giỏi về thuốc Nam, tìm được sâm ngọc linh gì đó. Ông ta nghe nói ba tôi là con của một ông lớn, hăng hái nhận chữa và bảo đảm sẽ hết bệnh. Khi tôi ghé thăm nhà ông ta, thấy bức hình đóng khung to đùng chụp ông ta bắt tay với ông nội tôi trong một lần được ba tôi đưa sang thăm, bên dưới có dòng chữ lớn chú thích rõ là ai. Tôi nhìn bức hình cười mỉa. Tôi không tin vào những ông thầy lang, lại càng không tin những ông mở miệng chắc chắn mình chữa được bệnh ung thư. Ông ta để râu dài bạc trắng nom cứ như Hoa Đà, Biển Thước tái thế! Ông tỏ ra rất thông thái. Cái điệu bộ của ông suýt nữa cũng gây ấn tượng với tôi, nhưng cái ý nghĩ về bức hình đóng khung khiến tôi cảnh giác. Thêm nữa là cái tài thuyết giảng của ông. Ông ngồi kể chuyện hành trình trên đường Trường Sơn, leo rừng lội suối tìm nhân sâm, bị người dân tộc bắt. Tôi, bà chị và ông anh rể nghệt mặt ra nghe. Rồi ông ngồi nói hùng hồn về sự khám phá cách chữa bệnh ung thư của ông, nhưng ông phải giữ bí mật vì sợ người ta tìm giết, sợ những người chế tạo ra máy móc hóa trị, xạ trị tìm xử bắn. Ông bảo nếu phương pháp chữa bệnh ung thư của ông truyền ra, bác sĩ, kỹ sư y học đều sẽ bị thất nghiệp, sẽ rất nguy hiểm cho ông. Khi tôi hỏi anh rể cũng là bác sĩ rằng ông đã chữa được ai chưa, anh rể tôi bảo ông chữa được một số bệnh nhân ung thư. Bao nhiêu thì không biết, chỉ biết có hôm ông được ba tôi mời vào Sài Gòn khám bệnh, ở khách sạn, có hai vệ sĩ võ công cao cường đi theo. Rồi không hiểu ai tung tin ông vào thành phố, mà bệnh nhân đến tạ ơn rầm rầm. Tôi nghe mà cười khùng khục. Khi nói chuyện, nghe bảo tôi học bên Anh về, ông hào hứng bàn chuyện chính trị với tôi, đố tôi giờ nước mình đang hòa bình hay chiến tranh. Ông ngồi kể chuyện lịch sử làu làu, thỉnh thoảng tôi còn để ý ông trộn thêm chuyện thần thoại vào lịch sử cho nó kịch tính. Ba tôi ban đầu nể ông lắm, bảo ông đầy kinh nghiệm, thông thái. Nhưng về sau, nhắc đến ông là ba lắc đầu. Ông thầy thông thái đó bán cho ba tôi một bọc sâm củ to củ nhỏ, củ tươi củ héo với giá mấy chục triệu, thêm hàng tá thuốc linh tinh khác. Mới đầu ông bảo chữa bệnh cho ba là chính, tiền là phụ, nhưng dĩ nhiên ông nói thêm là mấy cái này phải bán cho ba vì người như ba tôi mới trả nổi. Tôi nghe lại cười, nhưng lần này là cười buồn. Tội nghiệp ba tôi.
Ba tôi uống một đống thuốc của ông ta mỗi ngày. Bụng đầy thuốc, ăn uống không được. Hôm nôn mửa, hôm ôm bụng than đau, mà chẳng thấy khá hơn, chỉ xuống sắc. Ba tôi đành phải kiếm hướng khác. Về sau, ông thầy già ấy cũng tự im lặng rồi biến mất.
Ở với ba một thời gian, tôi thấy ba là con người nghị lực, nghị lực đến cứng đầu. Ba tin chắc mình sẽ khỏi, thế nên tìm hết thầy thuốc này đến thầy thuốc khác, uống hàng trăm thứ thuốc trên đời. Uống xong lại bảo những ông thầy này chỉ kinh doanh, muốn lấy tiền, lừa đảo, thuốc chả tác dụng. Tôi nhìn ba mà xót, nghe mà chẳng biết nói gì, chỉ biết lo cho ba ăn uống đầy đủ.
Tháng 7-8 năm 2009…
Rồi một người bạn của ba tôi giới thiệu một mối chữa bệnh ở Trung Quốc. Người ta nói thuốc này mới được chế tạo, dùng thuốc bắc với công nghệ lên men, đang thử nghiệm. Nghe bảo chữa được mấy người ung thư phổi và dạ dày, hiệu quả lắm. Lúc nghe tin về mối đó, ba tôi đang nhịn đói. Nhịn đói để lọc chất độc và làm teo khối u. Đó là một trong hàng loạt phương pháp ba tôi nghe người ta mách, rồi làm theo. Ba nhịn đói được hai mươi mốt ngày, chỉ uống nước trái cây mà sống. Người ba gầy sọm đi, da vàng ủng dính sát vào xương. Người nào không gặp ba thường xuyên, nhìn thấy ba thì sốc. Khi đi kiểm tra lại, khối u chẳng nhỏ đi bao nhiêu, có chăng là teo đi một chút theo tỷ lệ cơ thể của ba. Thế nên khi nghe về phương thuốc mới bên Trung Quốc, ba tôi như người chết đuối vớ được phao.
Vậy là tôi với ba soạn đồ, khăn gói đi Quảng Châu, Trung Quốc. Lúc này ba vẫn đi lại được, dù hai bàn chân đã bắt đầu phù to. Tôi hơi lo lắng, bởi tôi không biết tiếng Trung, và tôi không biết mình có đủ sức một mình lo cho ba ở bên đó không. Chúng tôi sang, gặp một nhóm các ông Trung Quốc xì xồ xì xào cái thứ tiếng mà tôi không hiểu. Có một ông người Hoa nhưng từng sống ở Việt Nam, là người làm dịch vụ trung gian đồng thời là phiên dịch cho chúng tôi. Ông ta chỉ xuất hiện khi mấy ông thầy thuốc già đến để khám bệnh và đưa thuốc cho ba tôi. Toàn bộ thời gian còn lại, ba con tôi phải tự xoay sở. Thế là tôi dẫn ba đi ăn, rồi đi siêu thị mua đồ đạc cần dùng. Tôi ra sức huơ tay múa chân để họ hiểu tôi muốn gì, lắm lúc thấy mình như diễn viên kịch câm chuyên nghiệp.
Ở đấy hơn một tuần thì tôi nghe tin cuối tuần sau mẹ tôi sang và sẽ cùng về với hai ba con. Thế là tuần kế tiếp trôi qua nhẹ nhàng hơn. Tôi cũng đã dần quen với những gì cần làm bên này, quen với vài quán ăn gần khách sạn, và quen những kiểu múa tay chân cần thiết. Hai tuần, đến khi mẹ tôi qua, ba tôi đã không thể đi lại bình thường. Cẳng chân ba phù to lên đầu gối, mỗi đêm đều đau. Thậm chí có một hôm ba vấp té, đập mặt chảy máu răng. Tôi đỡ không kịp, sợ tái người. Trước khi về Việt Nam, người ta cho ba đi chụp cắt lớp và siêu âm để xem sau hai tuần uống thuốc kết quả thế nào. Mấy ông thầy thuốc Trung Quốc bảo thuốc này chỉ cần 14 ngày là người ta hết bệnh. Vào viện thử máu, mấy bà y tá xì xồ tiếng Trung với chúng tôi, rồi chích ba tôi cả chục lần trong cả tiếng mới lấy được tí máu để xét nghiệm. Vậy mà chụp chụp chích chích xong rồi, người ta không dám đưa kết quả cho chúng tôi xem, chỉ vỏn vẹn bảo kết quả thấy khá lên. Ba tôi nghe thì mừng lắm. Còn tôi thì không tin.
Ba tôi đem một đống thuốc về uống. Ba bảo bọn này không phải kinh doanh, bởi họ cho ba thuốc miễn phí và ghi ba vào danh sách thử nghiệm. Họ chỉ lấy tiền khách sạn và tiền đưa đón mấy ông thầy thuốc. Họ muốn chữa hết cho mình để quảng bá thuốc tại Việt Nam. Tôi im lặng, không nói gì, hàng ngày vẫn lấy thuốc đều đặn như ba muốn. Thuốc ba uống của Trung Quốc là dạng men, như uống dấm mỗi ngày. Hôm nào ba ăn được thì không đến nỗi, hôm nào ăn ít thì nó cào ruột, đau hơn bình thường. Ba luôn miệng nói phải quyết tâm theo tới cùng, rồi chắc chắn qua mùa thu ba sẽ khỏi. Một ông bạn thầy bói phong thủy của ba bảo thế. Tôi lại im lặng, mỉm cười không nói gì.
Tháng 9 năm 2009…
Chỉ một hai tuần sau khi trở về từ Trung Quốc, ba tôi gần như không thể đi lại được nữa. Chân ba phù to, da mỏng tang, vàng khè. Có một vết rộp ở chân do ba đắp đồ chườm nóng, rồi từ cái vết đó, nước dịch vàng ứ trong chân ba chảy ra. Mọi người bảo ba phải rắc thuốc hay bôi kem cho nó lành, nhưng ba muốn để tự nhiên nó hết. Thế là ngày này qua ngày khác, dịch vàng chảy òng ọc ra khỏi cái lỗ đó ở chân ba. Nó không lành. Ngày nào tôi cũng lấy khăn chậm cho ba năm đến sáu lần, nước chảy đọng trong dép, dính trên quần, lên giường gối. Ướt nhẹp, bốc mùi. Ba mất dần cảm giác. Có vài lần, ba tôi nhìn đống nước vàng trên sàn nhà, hỏi cái gì thế. Tôi ấp úng, rồi bảo nước chảy ra từ chân ba đấy. Ba lặng lẽ nhìn, hỏi lại thế à, rồi không nói gì nữa.
Từ từ, bụng ba bắt đầu trương phình lên. Ba ăn không nhiều, miệng lạc cảm giác, ăn lúc kêu mặn lúc kêu đắng. Nước sôi bốc khói ba tu ừng ực như không. Mỗi khi đau, ba không bao giờ than, chỉ bực dọc, khó tính hơn. Thỉnh thoảng tôi hỏi ba có đau không, ba bảo ba hết hẳn đau rồi, rằng thuốc có tác dụng đấy. Không hiểu sao tôi không hề vui khi nghe câu đó. Tôi nhìn thấy rõ tình trạng của ba từng ngày. Từ hồi đi Trung Quốc về, sức khỏe ba xuống dốc từng tuần, rồi sau đó là từng ngày. Tôi không dám rời ba nửa bước. Càng về sau, ba càng té nhiều, trong phòng ngủ, trong nhà tắm. Mẹ tôi mua cho ba mấy cây gậy để chống, rồi đủ loại ghế để ba ngồi mà không phải gập bụng.
Theo kế hoạch là từ Trung Quốc về, chúng tôi ở nhà cho ba tôi uống thuốc 20 ngày rồi lại phải sang kiểm tra lần nữa. Hai mươi ngày trôi qua trong chớp mắt. Tôi nơm nớp lo sợ cái ngày phải trở lại Quảng Châu. Tôi sợ lần này tôi không đủ sức lo cho ba và đỡ ba, bởi ba yếu hẳn và không thể đi lại được nữa. Thời gian này, tôi thường xuyên phải đỡ ba vào nhà vệ sinh, đỡ ba lên giường. Toàn thân ba cứng đờ đi, tay không có lực, mặt không khác gì cái sọ với lớp da vừa vàng vừa thâm, còn chân và bụng thì ngày càng ứ dịch phình to. Tôi căng thẳng những lúc ba té. Dù thể trạng tiều tụy, nhưng đầu óc ba tôi tỉnh táo kinh hồn. Đôi lúc tôi tự hỏi cái nào đỡ hơn, chịu đựng sự tra tấn thể xác nhưng vẫn tỉnh táo như ba, hay thà là mê man lú lẫn. Có những lúc ba ngồi thừ trên ghế nhìn ra cửa sổ, mắt suy tư buồn bã, hay có những lúc mặt hiện lên vẻ tính toán. Tôi không hiểu những lúc đó ba nghĩ gì, tính gì.
Có lần, ba đứng trước cửa sổ đung đưa tay lên xuống, bài tập thể dục mà ba tôi vẫn làm hàng ngày. Tôi ngồi trong bếp, nhìn bóng phản chiếu của ba qua cánh cửa kính nhà bếp, một bóng người gầy còm đang quạt tay trước một cái cửa sổ có song, bên ngoài lá cây đập vào nhau khi gió thổi. Lúc đó, hình ảnh của ba y hệt một con chim với cái cánh trụi lông và thân mình đầy xương, đang cố đập cánh thoát khỏi những song sắt của cửa sổ, hay một cái lồng. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không quên được hình ảnh đó.
Một sự giải thoát xa xỉ. Một sự giải thoát mà người bị giam không mong muốn có.
Đêm trước hôm bay đi Trung Quốc, ba cẩn thận dặn tôi kiểm tra lại đồ đạc tôi đã soạn cho ba kỹ lưỡng. Rồi trước khi đi ngủ, ba uống một viên thuốc giảm đau và một viên thuốc ngủ, vì ba muốn ngủ yên để hôm sau dậy sớm, đủ khỏe để đi máy bay. Ba cẩn thận quá. Kết quả là, không hiểu do ông trời sắp đặt, hay do sự cẩn thận của ba phản lại ba, đến buổi sáng ba tôi mê man, gọi mãi không dậy được. Một lúc sau, ba dậy nhưng vẫn nửa mê nửa tỉnh, tôi đỡ ba vào nhà tắm, vào được bên trong, tôi vừa buông tay thì ba ngã đập mặt xuống. Tôi sợ phát khóc. Tôi không đỡ nổi ba nữa, anh rể tôi phải đỡ ba vào phòng. Ba ngồi trên giường, mắt mở không lên. Tôi và mẹ khuyên ba nên hoãn chuyến này lại. Ba mở mắt, lắc đầu nguầy nguậy, bảo nhất định phải đi. Chúng tôi chiều ba. Chú lái xe gần như khiêng ba xuống xe hơi. Ngồi trong xe, ba nhìn mọi người mỉm cười, yếu ớt bảo, lần này đi sẽ vui vì có cả nhà đi cùng. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, không ai dám nói một lời. Xe hơi lăn bánh ra sân bay. Ba mê man hẳn.
Đến sân bay, tôi chạy vào gọi dịch vụ xe lăn đã đặt. Theo nguyên tắc bác sĩ của sân bay đến khám cho ba trước. Khi đẩy ba trên xe lăn vào, ba vẫn không biết gì. Ông bác sĩ nhìn ái ngại, đo huyết áp, nhịp mạch, rồi lắc đầu bảo không bay được. Ba bị hạ đường huyết quá thấp. Chúng tôi đành phải đưa ba đi cấp cứu. Ai cũng tưởng ba tôi đã đi vào hôn mê do gan tổn thương, mà hôn mê gan thì không tỉnh lại nữa. Đến khi xe cấp cứu tới, ông bác sĩ gọi to tên ba, ba tôi lại giật mình thức dậy. Ai cũng mừng. Tôi đi theo ba lên xe cấp cứu. Thi thoảng ba mở mắt hỏi đến sân bay chưa, hay tới Trung Quốc chưa, hay đang đi đâu, rồi lại mê.
Ngày đầu nằm trong phòng hồi sức của bệnh viện, ban ngày ba mê man, đến ban đêm ba lại tỉnh. Khổ nỗi ban đêm người ta không cho người nhà bệnh nhân vào. Tôi về nhà mà trong lòng không yên. Hôm sau tôi vào, y tá bảo chưa đến giờ cho người thăm bệnh, nhưng sẽ ngoại lệ cho tôi vào với ba, vì cả đêm và cả buổi sáng ông cứ gọi và đòi tôi mãi. Tôi vào thì thấy ba mở mắt thao láo, vừa thấy tôi ông đã thốt lên rằng tôi đi đâu, ông gọi mãi mà không trả lời, rằng mấy cô y tá làm ông đau lắm, mà hỏi gì cũng không trả lời. Ba tôi ứa nước mắt, bảo tôi phải ở lại đây, không được rời ba, bảo rằng có tôi thì ba mới yên tâm được. Tôi cố kìm khóc, giải thích là người ta không cho vào, rồi hứa với ba sẽ ở đây luôn, không đi đâu nữa.
Người ta chuyển ba xuống khu khác để người thân có thể ở cùng qua đêm, nhưng lại phải chung phòng với một bệnh nhân khác. Ba luôn miệng đòi ra viện. Mẹ tôi bàn chuyển ba ra bệnh viện tư để có phòng riêng thoải mái. Bác sĩ đã đưa kết quả, bảo không còn hy vọng gì nữa, có giữ trong bệnh viện cũng chỉ là hỗ trợ thêm. Tình trạng của ba là tính theo ngày theo giờ, chứ không còn tính theo tháng nữa. Mật tắc và tràn ra máu, u to, thận và gan biến chứng. Tôi ngồi nghe, mặt thộn ra, chẳng tỏ vẻ gì. Tôi đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi cũng chẳng muốn nghe những khẳng định đó. Tôi đi theo ba sang bệnh viện tư, phòng ở rộng rãi thoải mái hơn nhiều. Ba hài lòng hơn. Mọi người đề nghị thay phiên nhau chăm ba, nhưng ba chỉ muốn tôi và anh rể ở lại, vì ba quen tôi chăm sóc, còn anh rể đỡ ba vào nhà vệ sinh.
Trong vài ngày sau đó, tôi sống luôn trong bệnh viện, nhìn ba nằm bất động trên giường, lúc mê lúc tỉnh. Ba tôi bảo bây giờ nhìn ai cũng hai đầu. Khi mê, ba nằm ngủ mở miệng mở mắt. Khi tỉnh thì ba nằm đó chớp mắt, mặt chán đời nhưng vẫn cố ăn. Có hôm giữa đêm, ba cố ngồi dậy, tôi chạy ra đỡ thì ba xua tay, bảo ba muốn tập tự đi, để sớm ra viện. Nhưng đến ngồi thẳng dậy ba cũng không ngồi nổi. Ba nghị lực đến mức ba chối bỏ cái đau, chối bỏ sự yếu sức của mình, chối bỏ những điều có thể xảy ra. Yếu vậy mà đầu ba vẫn sáng và nhớ mọi thứ, những khi ba tỉnh, ai đến thăm hỏi ba đều nhớ, không lú lẫn. Ung thư là căn bệnh độc ác, nó rút mòn và hành hạ thể xác nạn nhân, nhưng lại giữ đầu óc họ tỉnh táo để cảm nhận rõ những nỗi đau đó.
Ba ngày sau khi ba tôi chuyển sang bệnh viện tư, vào ban đêm, ba tôi tỉnh dậy, trợn trừng mắt, đưa tay xoa bụng mà không nói gì. Mới ngày hôm đó, ông vẫn nói chuyện bình thường. Tôi hỏi ông có đau không, nhưng ba tôi không trả lời, chỉ liên tục trừng mắt, đầu quay qua quay lại rồi đưa tay xoa bụng. Tôi chạy đi gọi bác sĩ, bác sĩ đến khám rồi cho ông một viên thuốc giảm đau, im lặng đi ra. Tôi cho ba uống, tôi biết ba tỉnh bên trong bởi ba vẫn uống được thuốc. Nhưng mỗi khi tôi hỏi, ông không thể trả lời, chỉ mở to mắt nhìn tôi. Cho ba uống thuốc xong, tôi tắt đèn và ra giường nằm. Ba lại quay nghiêng đầu, nhìn thẳng vào tôi với đôi mắt muốn nói nhiều thứ. Đôi mắt ấy chưa bao giờ rời khỏi ký ức tôi. Tôi lại bật dậy, mở đèn ra hỏi ba có muốn gì không. Nhưng vẫn thế, ba chỉ mở to mắt nhìn tôi chằm chặp, miệng há ra mà lời không thoát. Rồi từ từ, ba mê dần. Sáng hôm sau, ba tôi đi.
Đó là một ngày cuối tháng 9.
Kết thúc một tháng. Kết thúc một cuộc đời. Kết thúc một hy vọng.
Với tôi, nó là kết thúc một chặng đường.
Tháng 10 năm 2009…
Ba tôi mất rồi, mọi người lục tìm lại giấy tờ thì phát hiện một bí mật mà ba tôi giấu suốt bao năm nay. Đó là sự tồn tại của một đứa bé tám tuổi trong cuộc đời của ba. Không ai trong gia đình tôi, từ ông bác là anh trai của ba tôi, đến những người thân cận của ba như lái xe, giúp việc, đều chẳng hề biết gì về đứa bé này. Mẹ tôi tìm được địa chỉ, báo tin cho họ rằng ba tôi mất, ngỏ thiện ý mời họ đến đám tang. Hỏi chuyện ra thì mẹ thằng bé đang trong trại giam vì nghiện ma túy từ hai năm nay. Ba tôi đón thằng bé và bà ngoại nó từ Hải Phòng vào thành phố để nuôi. Cứ mỗi cuối tuần, ba cho tất cả các nhân viên nghỉ, ngay cả người giúp việc, để đến thăm và dẫn thằng bé đi chơi. Trong một cái cặp của ba, tôi tìm thấy những lá thư của người mẹ thằng bé, viết cho ba những lời ướt át, tình cảm nhưng cuối cùng cái ý chung lại là để đòi tiền. Đa số các bức thư đều đem thằng bé ra, lấy lý do tội nghiệp nó mà cứu lấy mẹ nó. Mỗi lần, cô ta xin từ hàng chục đến trăm triệu, trong mỗi lá thư đều nói rằng đây sẽ là lần cuối cô ta xin tiền ba tôi. Tôi còn tìm thấy một tờ giấy từ con viết bằng tay, bảo rằng xin trả lại thằng bé cho ba tôi và để bà ngoại nó nuôi, bởi cô ta không thể rũ bỏ chất bẩn. Trong tờ giấy đó, cô ta viết hãy bảo thằng bé rằng cô ta đã chết vì không thể làm một người mẹ tốt, rồi xin ba tôi mười triệu đồng lần cuối.
Nhiều người nghe chuyện, gọi cho tôi và mẹ tôi bảo rằng phải làm rõ ràng, gia đình ấy đã làm tiền ba tôi bao lâu nay, làm cho ba căng thẳng rồi sinh bệnh. Có người nói bọn họ không phải người đàng hoàng mà là dân lừa đảo. Mẹ tôi lại bảo, có lẽ những năm sau này, thằng bé là niềm vui của ba. Tôi chỉ xót xa một điều, rằng lâu nay ba sống với những nỗi niềm và gánh nặng ấy giấu kín. Ba tôi là người rất sĩ diện, lại rất cẩn thận trong mọi chuyện giao tiếp, tuy ba luôn là người hiền lành, thương người. Tôi biết ba sợ người ta đánh giá, bởi người mẹ thằng bé rất trẻ, chỉ lớn hơn chị tôi một hai tuổi, lại là một người nghiện. Thêm nữa, lúc thằng bé sinh ra, ba mẹ tôi vẫn chưa ly dị. Vì thế, đến những người thân nhất ba cũng không hé miệng một lời. Khi tôi gặp thằng bé, nó rất kháu khỉnh, dễ thương, nhưng nó không giống ba tôi. Mẹ tôi và mọi người đều bảo không cảm thấy thằng bé có mối liên hệ ruột thịt với ba. Thằng bé đến dự lễ tang với bà ngoại và dì của nó, họ đến khóc lóc và kể đủ chuyện cho chúng tôi nghe, rằng ba thương và chăm sóc thằng bé nhiều đến thế nào. Còn thằng bé thì nhảy loanh quanh chụp hình quan tài của ba tôi. Lúc di quan, nó vừa chạy theo sau vừa nhảy chân sáo và hát. Tôi thầm nghĩ, nó mới 8 tuổi, liệu nó có nhận ra ba trong chiếc quan tài đó, dù khi hỏi nó gật đầu?
Về sau, vì thủ tục pháp lý, chúng tôi dẫn thằng bé đi thử ADN để kiểm chứng xem nó có phải con ruột của ba tôi không. Kết quả, nó không mang cùng dòng máu với ba tôi. Chúng tôi thở dài. Vậy là lâu nay ba còng lưng nuôi con người khác, lại phải ra sức giấu giếm để cuộc sống nặng nề thêm. Bà ngoại thằng bé bảo, từ hồi tôi chuyển sang ở cùng để chăm sóc ba, ba tôi cấm tiệt thằng bé liên lạc với ba vì sợ tôi biết. Tôi nghe mà chạnh lòng. Cho đến những ngày cuối, dù sức yếu nhưng ba vẫn không hề dặn dò gì tôi. Ba cẩn thận, chu đáo, kỹ lưỡng cả đời, để rồi đến lúc cuối lại chẳng một lời. Khi chết đi thì những gì ba tôi cố công giấu kỹ lại vỡ ra và tràn vào thiên hạ như ong vỡ tổ. Ồn ào. Lạc hướng.
Niềm tin là một thứ có sức mạnh khiến người ta vượt qua nhiều thứ. Nhưng rồi nó cũng có sức mạnh hủy diệt nhiều thứ. Nó là sản phẩm của thiên thần, mà cũng là đứa con của quỷ dữ.
Hy vọng cũng vậy.

Chặng đường tôi đi cùng ba chỉ có vài tháng, nhưng nó thay đổi tôi đáng kể. Nó thêm vào 21 năm ngắn ngủi của tôi một đoạn phim thể loại siêu thực.
Có những thứ qua đi như một giấc mơ đầy mộng mị, có những thứ ở lại như những ký ức giăng tơ.
Điều kỳ lạ ở những sự kiện trong đời là có những thứ xảy ra trong nhiều năm có thể tóm gọn vào vài dòng chữ. Lại có những điều chỉ diễn ra trong vài tháng thì phải trải dài ra những trang giấy.
Một ngày đẹp trời, tôi mang tro của ba tôi ra biển, mượn thuyền của một người quen ra giữa biển để rải. Tro bay ra gió rồi rơi xuống nước. Trong túi tro đó có hai loại tro, một loại màu đen nổi lềnh bềnh trên mặt nước, còn một loại màu trắng lấp lánh dưới ánh nắng trong nước rồi từ từ chìm xuống. Tro màu trắng là phần cốt vụn của ba tôi, trừ những cốt lớn được bỏ vào hũ đá hoa cương đặt ở nghĩa trang thành phố. Lúc ngồi trên thuyền, tay nắm những vốc tro bụi từng một thời là cơ thể của ba tôi, một thời là con người biết thở, biết nghĩ, biết sống mấy chục năm, tôi cảm một xúc cảm lạ lẫm. Mọi thứ là phù du, vô nghĩa khi con người trở về với cát bụi. Đám tro trắng lấp lánh trong nước trước khi chìm xuống ấy như đám bụi của bà tiên, thần kỳ và ma mị. Cuối cùng thì những nỗi niềm bị giấu kín, những bí mật của ba tôi cũng thành tro cát cùng ba.
Tro bay. Có cái gì đó trong tôi cũng bay đi.
Tôi quay về nhà, quay lưng với biển rộng thênh thang giờ đang ôm một phần của ba tôi trong lòng.
Tôi quay về với mẹ tôi, quay về như chưa từng ra đi. Ở lại như chưa từng ở xa. Tĩnh như chưa từng động.
Tôi quay về để bắt đầu một chặng đường mới của tôi.
Tp Hồ Chí Minh mùa đông 2009
VTN

Sunday, July 25, 2010

THƠ VỘI


Trăng nghiêng bóng chiếc liếc đời

Em nghiêng mắt liếc biếc trời ái ân

Đi qua nhau thở nhịp gần

Tim thon thót lửa tình nhân ngún trầm...

(Sưu tầm)

MỘT CHIỀU NGƯỢC NẮNG


Em ngược đường, ngược nắng để yêu anh

Ngược phố tan tầm, ngược chiều gió thổi

Ngược lòng mình tìm về nông nổi

Lãng du đi vô định cánh chim trời

Em ngược thời gian, em ngược không gian

Ngược đời thường bon chen tìm về mê đắm

Ngược trái tim tự bao giờ chai lặng

Em đánh thức nỗi buồn, em gợi khát khao xanh

Mang bao điều em muốn nói cùng anh

Chợt sững lại trước cây mùa trút lá

Trái đất sẽ thế nào khi mầu xanh không còn nữa

Và sẽ thế nào khi trong anh không em?

Em trở về im lặng của đêm

Chẳng còn nữa người đông và bụi đỏ

Phố bỗng buồn tênh, bờ vai hút gió

Riêng chiều này - em biết, một mình em...
( Sưu tầm )

Wednesday, June 23, 2010

NGƯỜI MẸ ĐIÊN ( TRUYỆN NGẮN TQ )

Tình mẫu tử
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!".
Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.
Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận.
Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.
Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!".
Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!".
Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.
Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi. Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã trong miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...". Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!".
Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa lại.
Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi." Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?
Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu. Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào lòng tôi với vẻ nịnh nọt. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!" Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện. Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng. Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..." Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..." Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...".
Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!" "A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!" Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!" Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!".
Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...". Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu trêu chọc. Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị Phạm Gia Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra. Mẹ vì tôi gây ra đại hoạ, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Đây là những người do nhà Phạm Gia Hỷ nhờ tới, bố Phạm hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra." Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà họ Phạm, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngănbàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành hoạ đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.
Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp. Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.
27/4/2003, lại là một chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì. Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi... Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..." Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.
Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"

CÂU CHUYỆN LY VÀ NƯỚC



Ly nói: "Tôi cô quạnh quá, tôi cần Nước, cho tôi chút nước nào!"

Chủ hỏi: "Được, cho ngươi nước rồi, ngươi sẽ không cô quạnh nữa phải không?"

Ly đáp: "Chắc vậy!"

Chủ đem Nước đến, rót vào trong Ly.Nước rất nóng, Ly cảm thấy toàn thân mềm nhũn, rụng rời, tưởng như sắp tan chảy đến nơi. Ly nghĩ, đây chắc là sức mạnh của tình yêu.

Một lát Nước chỉ còn âm ấm, Ly cảm thấy dễ chịu vô cùng. Ly nghĩ, đây chính là mùi vị của cuộc sống.

Nước nguội đi, Ly bắt đầu sợ hãi, sợ hãi điều gì chính Ly cũng không biết. Ly nghĩ, đây chính là tư vị của sự mất mát.

Nước lạnh ngắt, Ly tuyệt vọng. Ly nghĩ, đây chính là 'an bài' của duyên phận.

Ly kêu lên: "Chủ nhân, mau đổ nước ra đi, tôi không cần nữa!"

Chủ không có đấy.

Ly cảm thấy nghẹt thở.

Nước đáng ghét, lạnh lẽo quá chừng, ở mãi trong lòng, thật là khó chịu.Ly dùng sức lay thật mạnh. Ly chao mình, Nước rốt cục cũng phải chảy ra. Ly chưa kịp vui mừng, thì đã ngã nhào xuống đất.Ly vỡ tan.

Trước lúc chết, Ly nhìn thấy, mỗi mảnh của Ly, đều có đọng vết Nước. Lúc đó Ly mới biết, Ly yêu Nước, Ly thật sự rất yêu Nước. Nhưng mà, Ly không có cách nào để đưa Nước, nguyên vẹn, trở vào trong lòng được nữa.

Ly bật khóc, lệ hoà vào với Nước. Ly đang cố dùng chút sức lực cuối cùng, yêu Nước thêm lần nữa.

Chủ về. Ông ta nhặt những mảnh vỡ, một mảnh cứa vào ngón tay, làm bật máu ra.

Ly cười, tình yêu, rốt cục là cái gì, lẽ nào phải trải qua đớn đau mới biết trân trọng?

Ly cười, tình yêu, rốt cục là cái gì, lẽ nào phải mất hết tất cả, không còn cách gì vãn hồi nữa mới chịu buông xuôi?

( Sưu tầm)

Thursday, May 20, 2010

Người đi


Vời trông theo một chuyến phà

Mênh mang ngọn sóng khuất xa bóng người

Em đi cuốn cả mùa vui

Cuốn tôi lỡ bến ngậm ngùi trăm năm.

* Sưu tầm

Gửi người


Một cành hoa gửi người xa

Để nghe một thoáng mây qua giữa trời

Để nghe một tiếng à ơi

Chiều vơi bóng nắng, nghiêng đời về nhau...

*Đàm Lan

Nghiêng


Mưa nghiêng trên ngón tay hồng

Gió nghiêng suối tóc bềnh bồng lãng du

Nắng nghiêng vỡ hạt sương mù

Em nghiêng tim dựa từng mùa xuân đi.

*Sưu tầm

Xuôi


Xuôi về em, một bến em
Mênh mông ơi biển ngày đêm mây trời
Mong đừng gió dạt mù khơi
Xuôi dòng thương một bến thôi... Xuôi về...
* Sưu tầm

Tuesday, May 18, 2010

GIÒ HOA NGŨ SẮC



NGUYÊN VẬT LIỆU:
- Giò sống: 300gram
- Carot: 1 củ
- Nấm mèo: 50gram
- Trứng vịt: 3 trứng
- Hột vịt muối: 4 trứng
- Da heo: 150gram
- Dầu ăn
- Hạt nêm, muối…
- Lá chuối tươi
- Dây lạt

CÁCH THỰC HIỆN:

- Nấm mèo: ngâm, rửa sạch, xắt sợi nhuyễn
- Carot: xắt sợi nhỏ
- Hột vịt muối: lấy lòng đỏ
- Trứng vịt: đánh tan, nêm chút muối (1/6 muỗng café)
- Giò sống: nêm gia vị vừa ăn, quết thật kĩ để tạo độ dai, đồng thời để gia vị thấm đều.
- Da heo: luộc, xắt sợi nhỏ

Tiến hành:
1. Đầu tiên, bạn để chảo thật nóng trên bếp, cho vào 2 muỗng canh dầu ăn, tráng thật mỏng hết đáy chảo (loại chảo đáy bằng, tròn rộng để tráng được 1 lớp trứng mỏng). Trút phần dầu ra chén, bắt chảo lại lên bếp. Cho trứng vịt đã đánh tan lúc nãy vào, xoay đều chảo để tráng trứng sao cho thật đều, thật mỏng. Khâu này đòi hỏi bạn phải khéo léo một tí!

2. Lấy trứng ra và để vào 1 cái đĩa to cho thật nguội.

3. Bắc chảo lên nữa này! Khử hành củ, tỏi băm cho thật thơm. Xào carot và nấm mèo nhé bạn! Nhớ cho tí gia vị (tiêu, muối, đường) vào đấy! Đảo nhanh thôi, đừng khiến nó quá chín.
- Da heo, carot, nấm mèo trộn đều thành 1 hỗn hợp đặc biệt gồm 3 màu sắc khác nhau, dùng để làm nhân cùng lòng đỏ hột vịt muối.

4. Trải lá chuối lên thớt (hoặc mâm rộng), lưu ý để mặt trong của lá (có màu xanh đậm) nằm bên dưới thớt và mặt ngoài của lá (màu xanh nhạt) thì nằm phía trên. Bạn có thể hơ lá chuối trên lửa, hoặc trụng sơ lá để lá có độ mềm mại, dễ gói hơn. Thêm một lớp lá nữa, nhưng lần này bạn sẽ đặt nằm ngang, sao cho gân của 2 mảnh lá vuông góc nhau. Kế tiếp, bạn lót 1 lớp nilong lên trên mặt lá. Và bây giờ, bạn trải lớp trứng rán lên đi nào! Dùng muỗng quết giò sống phủ kín mặt trứng. Sau đó, bạn hãy rải đều hỗn hợp carot, nấm mèo, da heo thành 1 hàng dài ở giữa tấm trứng + giò vừa tạo nên. Đặt 4 lòng đỏ trứng vịt muối vào để làm nhân. Lưu ý không nên đặt quá sát nhau, bạn nhé!

5. Ta bắt đầu cuốn nào! Trước tiên ta cuốn cùng lúc lớp nilong và lớp lá tiếp đó. Cuốn sau cho thật tròn, đều tay, hệt như gói bánh tét vậy! Sau khi gói xong lớp lá thứ nhất, ta tiếp tục với lớp lá thứ hai,bẻ mép tấm lá lại, dùng dây lạt (hoặc dây nilong cũng được) buộc chặc.Phần này cũng tiến hành như cách buộc lạt bánh Tét. Quan trọng là bạn cuộn sao cho tròn và buộc chặc tay là ok.

6. Đặt xửng lên bếp, cho giò vào, hấp độ 1h là chín.

7. Giờ thì mở lá gói ra xem nào! Cắt và trình bày giống như hình thử đi! Woooo… tui phục tui quá xá! Kakaka… Chúc bạn thân yêu của tui thành công nhé!

Monday, May 17, 2010

Thơ Chôm từ nhà Lè Phè : TÌNH YÊU


Chử Tình ghép với chử Yêu
Tạo thành lắm chuyện lắm đIều thế gian
Tình Yêu như chiếc thuyền nan
Bồng bềnh trên sóng trăm ngàn bến mơ
Tình Yêu chẳng khác con cờ
Xoay chiều đổi hướng bất ngờ trở tay
Tình Yêu nào khác rượu say
Men nồng cay đắng khi đầy khi vơi
Tình Yêu như ánh ma trơi
Loé lên rồi tắt cho đời dỡ dang
Tình Yêu như chiếc lá vàng
Rụng theo chiều gió héo tàn tả tơi
Tình Yêu ngọt mật lắm lời
Bao nhiêu hẹn ước thả trôi theo giòng
Tình Yêu chớm nở suốt trong
Như pha lê vỡ như tròng trói gô
Tình Yêu là một nấm mồ
Chôn bao mộng đẹp ép khô tâm hồn
Tình Yêu vội vã bồn chồn
Vòng tay ân ái cái hôn nụ cười
Tình Yêu của tuổi đôi mươi
Đẹp như sao sáng trên mười tầng cao
Tình Yêu của kẻ hoa đào
Thay màu đổi nhụy đón rào trước sau
Tình Yêu của kẻ mày râu
Mạnh như vũ bão cạn sâu không lường
Tình Yêu của giới màu hường
Nhẹ như bông tuyết một vườn đầy hoa
Tình Yêu của lứa tuổi già
Đắn đo tính toán mặn mà như ai
Tình Yêu mang xuống tuyền đài
Âm hồn không thoát đầu thai kiếp người

Sunday, May 16, 2010

Một Thời Đã Xa...


MY BABY

HOA CỎ MAY



Cát vắng, sông đầy, cây ngẩn ngơ
Không gian xao xuyến chuyển sang mùa
Tên mình ai gọi sau vòm lá
Lối cũ em về nay đã thu.
Mây trắng bay đi cùng với gió
Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ.
Đắng cay gửi lại bao mùa cũ
Thơ viết đôi dòng theo gió xa
Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may
Áo em sơ ý cỏ găm đầy.
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói,
Ai biết lòng anh có đổi thay ?
*XUÂN QUỲNH

HAI SẮC HOA TIGÔN



Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương, cát
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"

Thuở đó, nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy"

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ, chết yêu đương.
Người xa xǎm quá! Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ đấy thu rồi, thu, lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng một người

Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Sắc hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!


Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ ?
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ?

*T T K H

Đôi dép


Bài thơ đầu tiên anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ
Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng kẻ khác
Số phận chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở thành khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tri khăng khít song hành
Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi

Không thể thiếu nhau trên bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái
Nhưng tôi yêu em ở những điều ngược lại
Gắn bó nhau vì một lối đi chung

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia ...
*Nguyễn Trung Kiên

Em thích anh - Người đàn ông đeo nhẫn


Quên nghĩa là đã từng nhớ!

Một quán cà phê nhỏ với hàng rào trắng và những dây thường xuân xanh ngắt.

Trời mưa.

Em


Chiếc dù xanh lá


Anh


Chiếc dù xanh lá.

Hai con người xa lạ đứng giữa trời mưa trước cổng quán cà phê Xanh lá, nhìn vào mắt nhau, thật lâu. Và ta biết nhau từ dạo ấy.

Em không tin vào tình yêu sét đánh, đó là thứ tình cảm có sức hủy diệt như bom nguyên tử, mãnh liệt nhưng sau đó là tro tàn. Em tin vào những gì chắc chắn, bền lâu, như giọt mưa thấm đất.

Nhưng... Em thích nhìn những gì tréo ngoe trên cuộc đời này: một ông 50 vừa đi vừa ăn kem để thỏa lòng cô bồ trẻ trung xinh xắn, một bà xồn xồn vừa ngồi sau lưng chiếc mô tô phân khối lớn của "chàng phi công trẻ" vừa hét toáng lên “Em yêu anh”, một bà nhà giàu tay đeo vàng và nước hoa sực nức kèn cựa với chị bán rau để được giảm 500 đồng.

Và..em thích anh. Một người đàn ông đeo nhẫn.


Anh tự tin, từng trải, có sự nghiệp. Và anh có một gia đình.


Em yêu anh.

Không phải những chiếc xe hiệu anh đến chở em đi chơi.

Không phải những bữa tối lãng mạng trong các nhà hàng sang trọng.

Không phải những món quà đáng giá cả mấy tháng lương của một công chức.

Không phải những vòng tay siết chặt hay những cái hôn nóng bỏng.

Em yêu anh!

Vì cách anh nắm tay Em khi qua đường, luôn đứng về phía có xe để che chở em.

Vì cách mà anh cười hết cỡ khi kể cho Em nghe một câu chuyện cười mà Em không hiểu tại sao Anh lại cười được như thế.

Vì cách anh ngồi nghiêng nghiêng trong nắng, tay cầm quyển sách, trán nhăn nhăn và lâu lâu lại mỉm cười nhẹ nhõm.

Vì cách anh bàn chuyện đá banh thật sôi nổi với một bác xe ôm trong lúc đợi em.

Vì cách anh nhăn nhăn trán khi lựa chọn món đồ chơi cho con gái anh, trông nghiêm trọng như
anh phải ra một quyết định gì ghê gớm lắm!

Chị đến gặp em cũng tại quán màu Xanh lá.

Đẹp.

Duyên dáng.

Có học thức.

Nụ cười đẹp.

Và khuôn mặt...rất giống em.

Hoang mang.

Và khuôn mặt...rất giống em.

Chị nói rằng vô tình thấy ảnh của em trong cặp anh. Chị ngạc nhiên vì có người giống mình như thế nên hỏi anh. Anh chỉ nói: “Bạn…”

Và Chị muốn gặp em.

Vô tình ly cà phê nóng trên tay chị đổ xuống, ướt hết cả một mảng váy màu Xanh lá.


Em không bao giờ uống cafe. Đắng! Em thích trà sữa bạc hà. Bạc hà màu Xanh lá.


Anh đợi em ở cổng. Dáng đứng nghiêng nghiêng.


- Chia tay em nhé!


Em nhìn vào mắt anh: Khuôn mặt của Chị, nụ cười của Chị, ly cà phê đổ, sự dằn vặt...Và em hiểu.


-Vâng!


Em rút điện thoại, xóa số của anh.

Em mượn điện thoại anh, xóa số của em.

Em tháo chiếc nhẫn em vẫn đeo từ khi biết anh.

Rơi...


- Tại sao em đeo nhẫn đôi trong khi chưa có người yêu hả nhóc?

Em chưa bao giờ trả lời câu hỏi đó.

- Vì Em biết Anh sẽ không bao giờ đeo nhẫn vào tay Em!

Em quay lưng đi. Em là thế. Chẳng bao giờ níu kéo.
Một con nhím nếu muốn được yêu thương thì phải nhổ hết những cái gai trên mình nó. Dù biết đau, nhưng vẫn chịu đựng. Nhưng có ai cho nó biết: bao lâu thì gai trên mình nhím mới mọc lại hay không?

VÀ EM ĐÃ QUÊN....

Một ngày cuối năm 2008.

(Trích từ Blogger Khủng )

Biển và ta


Một hôm ta quay về với biển

Biển một đời sóng vỗ vô tâm

Biển ngó ta và ta ngó biển

Biển và ta cùng đã hoa râm.

*Vũ Khắc Tĩnh

Một mình


Một mình ngóng, một mình trông

Một mình trôi giữa mênh mông - một mình

Gọi mai - mai đón bình binh

Gọi chiều - chiều khuất. Đâu hình bóng ta?

*Sưu tầm

Sợi tình


Nối chi dài cái sợi dây tình ấy?

Giếng không sâu tình cũng bằng thừa

Gom chi đầy một trời mộng ước?

Người vô tình trút xuống cơn mưa...

Ví dầu


Nắng rơi trên lá lặng im

Mưa rơi xuống lá với niềm xôn xao

Ví dầu lá có hanh hao

Nắng mưa là chuyện chiêm bao thôi mà...

Chút tình rớt lại


Người ngoảnh mặt chút tình rớt lại

Gom về chưng ủ cất thành thơ

Một mai...mỗi lúc ta nhìn lại

Còn chút bồi hồi trong mắt xưa.

Vì sao


Vì sao xô mãi nên bờ rộng

Chẳng thể mang về hạt cát đau?

Biển vẫn muôn đời không hối tiếc

Ôm bờ, ru mãi tận ngàn sau?

*Nam Phong

Giữa vời


Nhện kia mà chẳng giăng tơ

Lấy chi để mắc bài thơ giữa vời

Em ơi! Bể khổ luân hồi

Trầm luân là để con người tìm nhau.

*Hạnh Phương

Tình xa


Buông trầm khúc ly tình phơi mũi gió

Ban mai khô. Bàn chân cỗi. Dấu rêu

Con chim nhả hợp âm mùa. Mắt khép

Giọng ca gầy trượt đỉnh dốc. Khản kêu.

*Nguyễn Đức Phú Thọ

Cõi không


Ta về góp nhặt hư vô

Thả hồn về chốn hoang sơ thuở nào

Đất trời cao thấp, thấp cao

Mông mênh...hồn nhẹ bay vào cõi không.

*Sưu tầm

Chiêm bao nắng


Ta vẽ sợi hồng trong giấc ngủ

Ru đời bay bổng tuổi trăm năm

Cảm ơn giọt nắng đùa hơi thở

Canh khuya huyền hoặc tiếng phong cầm.

Saturday, May 15, 2010

Không đề




Từ em nắng mỏng môi hồng


Gọi xuân lên mắt, rủ lời về thơ


Hạt tình vừa nẩy trong mơ


Vườn yêu hoa trổ bâng quơ trái mùa.


*Đoàn Trọng Hải

Thời gian


Nằm trăn trở với mộng đời bất tận

Nhịp thời gian qua cửa sổ bóng câu

Đời ngắn ngủi có chi là vĩnh cửu

Vạt nắng cuối chiều, viễn xứ chiêm bao.

Vay


Chòm mây vay nước ngàn khơi

Chiếc lá vay lửa mặt trời sắc xanh

Tiếng chim ríu rít trên cành

Cho tôi vay khắc yên lành sớm mai.

*Sưu tầm

Nếu


Nếu một ngày ta giả bộ không quen

Thì ngày ấy chắc buồn và tội lắm

Trăng đã lặng bên kia bờ bến đắm

Tím hoàng hôn chết dại một câu thề.

Nhân sinh


Ngồi lắng nghe những cung bậc thời gian

Từng giai điệu nồng nàn mà lặng lẽ

Hoa trái nhân sinh ngàn năm vẫn thế

Cay, đắng, ngọt, bùi ta hái để riêng mang.

*Xuân Định

Sóng




Dữ dội và dịu êm


Ồn ào và lặng lẽ


Sóng không hiểu nổi mình


Sóng tìm ra tận bể


Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế


Nỗi khát vọng tình yêu


Bồi hồi trong ngực trẻ


Trước muôn trùng sóng bể


Em nghĩ về anh, em


Em nghĩ về biển lớn


Từ nơi nào sóng lên?


Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu?


Em cũng không biết nữa


Khi nào ta yêu nhau


Con sóng dưới lòng sâu


Con sóng trên mặt nước


Những con sóng nhớ bờ


Ngày đêm không ngủ được


Lòng em nhớ đến anh


Cả trong mơ còn thức


Dẫu xuôi về phương Bắc


Dẫu ngược về phương Nam


Nơi nào em cũng nghĩ


Hướng về anh - một phương


Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó


Con nào chẳng tới bờ


Dẫu muôn vời cách trở


Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua


Như biển kia dẫu rộng


Mây vẫn bay về xa


Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ


Giữa biển lớn tình yêu


Để ngàn năm còn vỗ.


*Xuân Quỳnh